YÊN MÔ THƯỢNG, YÊN MẠC, YÊN MÔ, NINH BÌNH

img
Phả hệ đồ

Phả ký

PHẢ KÝ HAY LÀ GIA SỬ

Tộc phả là kho tàng quý giá ghi lại lịch sử dòng họ, thể hiện sự kế thừa, gắn kết và ý thức cội nguồn của mỗi người. Đây là mối quan hệ thiêng liêng giữa những người cùng huyết thống, tạo nên niềm tự hào sâu sắc. Gia phả giúp con cháu hiểu rõ công đức tổ tiên, đồng thời duy trì và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp. Việc xây dựng và lưu truyền gia phả không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên mà còn khơi dậy lòng tự hào, khuyến khích thế hệ sau noi gương và vun đắp giá trị văn hóa. Là một phần quan trọng của di sản văn hóa Việt Nam, gia phả phản ánh lịch sử đất nước qua từng giai đoạn. Với lòng biết ơn tổ tiên và khát vọng bảo tồn giá trị dòng họ, gia phả này được biên soạn để lưu giữ và truyền lại cho mai sau, góp phần tôn vinh bản sắc gia đình và dân tộc.

Theo các ghi chép còn lưu lại, kể từ đời Hiển Thủy Tổ Khảo - Phạm Hữu Công (tự Dũng Đức) và Hiển Thủy Tổ Tỷ (hiệu Từ Thiên), dòng họ ta đã bắt đầu sinh cơ lập nghiệp tại mảnh đất Yên Mô. Thời điểm này thuộc triều đại Lê Sơ, khi vua Lê Thánh Tông (Lê Tư Thành) trị vì với các niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497).

Nơi đây có cảnh quan núi sông hùng vĩ, sơn thủy hữu tình, nằm trên vùng đất mang dáng hình chữ “vương” - được coi là địa linh nhân kiệt. Với vị trí thuận lợi, dân cư khắp nơi di cư đến quần tụ đông đúc. Đặc biệt, Yên Mô nằm trên tuyến đường thủy độc đạo Bắc - Nam, trở thành một vùng đô hội sầm uất, thuyền bè qua lại tấp nập.

Với vị trí địa lý đặc biệt và con người xuất chúng, Yên Mô không chỉ là tên của một ấp mà còn được đặt cho tổng và huyện cùng tên. Theo sử sách, khu vực này xưa kia gọi là xứ Gia Nô, đến thời nhà Trần được đổi tên thành Mô Độ. Năm 1400, nhà Hồ soán ngôi nhà Trần, và năm 1407, Trần Ngỗi về Mô Độ lên ngôi Hoàng đế. Thời nhà Minh, vùng này được gọi là Yên Mô. Đến niên hiệu Bảo Thái (1720-1729) dưới triều Lê Dụ Tông, ấp Yên Mô được chia thành hai làng: Yên Mô Thượng và Yên Mô Hạ (Yên Mô Càn), đất tổ thuộc làng Yên Mô Thượng, nay là xóm 2, thôn Tây Sơn, xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Thủa ban đầu, các cụ làm nghề chài lưới, khai thác nguồn lợi tự nhiên, bờ cõi sa bồi không cầy cấy xuể. Đến năm 1475, vua Lê Thánh Tông giao tướng Lê Niệm đắp đê Hồng Đức để ngăn nước mặn, biến vùng bãi sa bồi thành đồng ruộng màu mỡ, con cháu trong họ phát triển kinh tế nông nghiệp. Từ đó, đời sống của dòng họ dần ổn định và phát triển.

Hậu duệ đời thứ 16, Trưởng Chi 2, Phạm Văn Nguyên, có bài thơ vịnh rằng:

Xưa kia Mô Độ tên làng

Bảng Sơn là Dắng, chài dân hướng về

Đất bồi thành cánh đồng quê

Thuỷ tổ Phạm Hữu chọn về định cư

Đất này Trần Ngỗi thuở xưa

Mộ quân khởi nghĩa dựng cờ xưng vương.

Qua kể lại các câu chuyện mà cha ông đã truyền dạy, dòng họ Phạm Hữu đã khai cơ lập nghiệp trên mảnh đất Yên Mô từ thời nhà Lê sơ. Khi vua Lê Thánh Tông (tên húy là Lê Tư Thành) lên ngôi, niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497), các cụ tổ của dòng họ đã xây dựng ngôi Đàn Đỏ như một biểu tượng truyền đời.

Đàn Đỏ tọa lạc trên một gò đất cao giữa cánh đồng “Lý ngư,” là biểu tượng linh thiêng với ý nghĩa đặc biệt. Công trình được xây dựng từ gạch non, trộn bột màu đỏ với hồ vôi để trát tường. Đây không chỉ là nơi lưu dấu truyền thống mà còn là điểm định vị để con cháu các thế hệ khi đi xa có thể tìm về cội nguồn. Chỉ cần nhìn về hướng Đàn Đỏ, ai cũng có thể nhận ra gốc gác dòng tộc của mình.

Ngôi đàn gắn liền với nhiều nghi lễ quan trọng như cầu mùa, tế trời, tế tổ tiên. Đồng thời, đây cũng là biểu tượng kết nối con người với thần linh và trời đất, thể hiện lòng thành kính và biết ơn tổ tiên, cùng niềm mong ước được phù hộ, độ trì.

Ngoài ý nghĩa tâm linh, Đàn Đỏ còn mang giá trị biểu tượng của sự đoàn kết trong dòng họ. Đây là nơi giữ gìn và phát huy truyền thống hiếu đạo, kết nối các thế hệ, duy trì sợi dây gắn bó bền chặt giữa các thành viên trong gia tộc.

Trong dòng họ, câu đối cổ về Đàn Đỏ vẫn được lưu truyền:

Phạm tộc vi Mô ấp tự thủy

Thử đàn giữ thử hương tịnh truyền

Dịch nghĩa:

Họ Phạm ta định cư sớm tại đất Mô Độ này

Khi có làng lập đàn, lưu truyền muôn đời

Ban đầu, Đàn Đỏ được xây dựng theo hướng Nam. Đến năm Kỷ Dậu 1849 (Tự Đức nhị niên), cụ Phạm Nhữ Di (tự Mạnh Thái), đời thứ 13, cùng các cụ trong họ đã quyết định xây lại Đàn Đỏ, đổi hướng từ Nam sang Tây theo thế “Long chầu, Hổ phục” – biểu tượng của sự uy nghiêm và sự quy phục.

Vào dịp Thanh Minh năm 2000 (Canh Thìn), với sự thống nhất của toàn thể dòng họ và tinh thần thành kính của con cháu nội ngoại, dòng họ Phạm Hữu đã xây dựng lầu bia bên cạnh ngôi Đàn Đỏ. Công trình này được thực hiện để thờ cúng tổ tiên và ghi danh các cụ tổ từ Hiển Thủy Tổ Khảo đến hậu duệ đời thứ 10, cùng các hậu duệ là trưởng các chi thuộc đời thứ 15.

Hoành phi, câu đối lưu truyền tại Đàn Đỏ:

Cửa chính Tây, hoành phi: Đức Lưu Quang

Câu đối ngoài cửa Tây:

Phía Nam: Đức thừa tiên tổ thiên niên thịnh

Phía Bắc: Phúc ấm nhi tôn bách thế vinh

Dịch nghĩa:

Tổ tiên tích đức cho con cháu ngàn năm thịnh

Con cháu nhờ ơn tổ tiên vạn đời vinh

Cửa Nam, cuốn thư: Phạm Hữu Tộc

Câu đối ngoài cửa Nam:

Phía Đông: Bản căn hương sắc ư hoa diệp

Phía Tây: Tổ khảo tinh thần tại tử tôn

Dịch nghĩa:

Cây cảnh có đẹp thể hiện lên ở hoa lá

Con cháu nhớ Tổ tiên, coi Tổ tiên ở trong con cháu

Hằng năm, vào dịp Thanh Minh, con cháu thuộc 8 chi phái của dòng họ từ khắp mọi miền đất nước lại tụ hội tại Đàn Đỏ để dự lễ tế tổ tiên. Đây cũng là dịp để họp mặt, báo cáo kết quả hoạt động trong năm qua và công bố kế hoạch năm mới, dưới sự chứng kiến và xác nhận của Hội đồng gia tộc.

Hậu duệ đời thứ 16, Trưởng Chi 2, Phạm Văn Nguyên, đã sáng tác một bài thơ vịnh về Đàn Đỏ:

Tiền thân các cụ họ ta

Xây ngôi đàn đỏ đã là bao năm?

Một tám bốn chín lại làm “1849”

Sửa sang quay lại hướng đàn sang Tây

Một trăm năm mốt năm kể từ đây

Nhị thiên nhiên kỷ dựng bia xây lầu.

Vào triều đại Lê Hiển Tông, tên húy là Lê Duy Diêu, lên ngôi và đặt niên hiệu Cảnh Hưng (1740–1786), hậu duệ đời thứ 9 và thứ 10 của dòng họ Phạm Hữu đã xây dựng nhà thờ trên mảnh đất tại xóm Sủ, làng Yên Mô Thượng (nay là xóm 2, Tây Sơn, Yên Mạc, Yên Mô, Ninh Bình). Công trình này được lập nên để thờ cúng tổ tiên, lưu giữ truyền thống, và kết nối các thế hệ trong dòng họ.

Nhà thờ không chỉ là một công trình kiến trúc mà còn mang ý nghĩa văn hóa, tín ngưỡng, thể hiện lòng biết ơn đối với cội nguồn. Đây là nơi con cháu tụ họp vào các dịp giỗ tổ, lễ tế, và thường được xây dựng theo phong cách kiến trúc truyền thống. Những hoành phi, câu đối trong nhà thờ toát lên sự tôn kính đối với tổ tiên và tinh thần hiếu đạo của dòng họ. Nhà thờ cũng là biểu tượng của sự đoàn kết, minh chứng cho trách nhiệm của các thế hệ sau trong việc bảo tồn các giá trị gia đình.

Trải qua thời gian, nhà thờ đã chịu nhiều ảnh hưởng bởi chiến tranh. Năm 1951, trong kháng chiến chống Pháp, làng Yên Mô Thượng nằm trong vùng “Vành đai trắng” và nhà thờ cũ đã bị thực dân Pháp đốt phá hoàn toàn. Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ kéo dài, dòng họ không có điều kiện để xây dựng lại nhà thờ.

Qua năm tháng, đất nhà thờ được ghi vào quyền sử dụng của gia đình hậu duệ Phạm Đức Nhuận. Năm 1982, gia đình cụ Phạm Đức Nhuận (hậu duệ đời 17, chi 1) đã xây dựng một căn nhà vừa để ở vừa làm nơi thờ cúng tổ tiên. Đến ngày Thanh Minh 25/2/2005 (Ất Dậu), con cháu họ Phạm Hữu từ khắp nơi đã tụ họp tại Đàn Đỏ, dâng hương kính tổ tiên, thể hiện lòng thành kính, hiếu thảo và trách nhiệm xây dựng lại nhà thờ trên nền đất Tổ. Gia đình hậu duệ Phạm Đức Nhuận đã cung tiến 207,2m² đất gồm: (diện tích xây nhà thờ: 61m²; diện tích sân nhà thờ: 135m²; diện tích hai bên hông nhà thờ: 11,2m²). Nhà thờ được xây dựng theo hướng Nam, khởi công động thổ ngày 1/10/2005 và đổ thượng lương vào ngày 2/11/2005, trong sự hoan hỷ của toàn thể dòng họ.

Hậu duệ đời thứ 16, Trưởng Chi 2, Phạm Văn Nguyên, đã sáng tác bài thơ vịnh về sự kiện trọng đại này:

Các cụ đời chín đời mười

Công cộng hương hoả xây ngôi từ đường

Để cho con cháu đèn hương

Đáp công dưỡng dục đền ơn sinh thành


Đời thập ngũ thập lục tôn

Cùng các đời tiếp quyết làm nơi xưa

Năm Ất Dậu có thời cơ

Đinh họ đóng góp với lòng hảo tâm

Ngôi từ đường đã thành công

Từ nay con cháu bổ xung thêm vào

Dòng họ Phạm Hữu khởi nguồn từ cụ Hiển Thủy Tổ Khảo - Phạm Hữu Công, người đã đặt nền móng sinh cơ lập nghiệp tại vùng đất Yên Mô đầy hứa hẹn. Từ nơi đây, trải qua bao biến động của lịch sử và thời gian, dòng tộc đã không ngừng phát triển, trải dài qua 20 đời kế tục. Dòng tộc được phân chia thành hai Trung Chi lớn, tách thành tám Chi và các ngành nhỏ, hình thành nên một gia tộc hưng thịnh và bền vững. Dòng họ Phạm Hữu không chỉ là nơi hội tụ của những thế hệ đi trước mà còn là cầu nối gắn kết những người cùng thời đại. Tất cả đều tự hào chung một nguồn gốc từ vị Thủy Tổ cao quý. Hiện nay, con cháu không chỉ sinh sống tại quê hương Yên Mô mà còn định cư khắp mọi miền đất nước và cả nước ngoài, tiếp tục làm rạng danh dòng họ.

Truyền thống dòng họ được kế thừa và phát huy qua các thế hệ, từ Hiển Thủy Tổ Khảo, Hiển Cao Tổ Khảo, Hiển Tằng Tổ Khảo, Hiển Tổ Khảo..., từng đời đều góp phần xây dựng một gia tộc đáng tự hào. Dù ở bất kỳ nơi đâu, mỗi thành viên dòng tộc Phạm Hữu luôn hướng về cội nguồn, đoàn kết và tiếp nối các giá trị quý báu mà tổ tiên để lại.

Hành trình phát triển qua 9 đời đến thời kỳ phân chi dòng tộc

Đời thứ 1: Hiển Thủy Tổ Khảo, Phạm Hữu Công (Tự Dũng Đức)

Đời thứ 2: Tự Dũng Sơn (con trai cụ Dũng Đức)

Đời thứ 3: Tự Dũng Nghĩa (con trai cả cụ Dũng Sơn) và Phạm Tính Húy (con trai thứ hai cụ Dũng Sơn)

Đời thứ 4: Phạm Hữu Kính (Tự Phúc Tâm, con trai cả cụ Dũng Nghĩa)

Đời thứ 5: Phạm Ngọc Tắc (Tự Đức Hạnh, con trai cả cụ Phúc Tâm)

Đời thứ 6: Phạm Ngọc Đường (Tự Phúc Bình, con trai cả cụ Đức Hạnh)

Đời thứ 7: Phạm Đăng Sỹ (Tự Đạo Ân, con trai cả cụ Phúc Bình) và Phạm Đăng Tường (con trai thứ hai cụ Phúc Bình)

Đời thứ 8: Phạm Hữu Quang (Tự Đạo Âu, con trai cả cụ Đạo Ân) và Tổ Cô (Hiệu Hoa Dung Nương, con gái cụ Đạo Ân)

Đời thứ 8: Phạm Xuân Phương (con trai cả cụ Đăng Tường) và Phạm Đăng Quýnh (con thứ hai cụ Đăng Tường)

Đời thứ 9: Phạm Hữu Ninh (Tự Định Chí, con cả cụ Đạo Âu) và Tổ Cô (Hiệu Diệu Thận, con gái cụ Đạo Âu)

Đời thứ 9: Tổ Cô (Hường thị Xuân Thanh, con gái cụ Xuân Phương)

Đời thứ 9: Phạm Đăng Quang (con trai cả cụ Đăng Quýnh) và Phạm Đăng Kính (con thứ hai cụ Đăng Quýnh)

Các đời sau: Tiếp tục phân chi và phát triển, mỗi đời đều góp phần duy trì dòng tộc.

Phân chi dòng tộc

Thế kỷ 19 - 20: Dòng họ phát triển mạnh mẽ, dẫn đến đời thứ 7 phân chia thành hai Đại Chi (Hậu duệ đời thứ 7, Phạm Đăng Sĩ, Tự Đạo Ân, Tổ Đại Chi 1 và Hậu duệ đời thứ 7, Phạm Đăng Tường, Tổ Đại Chi 2), đến đời thứ 9 từ đó hình thành tám Trung Chi (gọi là Chi) để thuận tiện trong việc quản lý và thờ cúng:

Đại Chi 1: Gồm sáu Trung Chi (Chi 1 đến Chi 6).

Đại Chi 2: Gồm hai Trung Chi (Chi 7 và Chi 8).

Danh sách các Tổ Chi do hậu duệ đời thứ 10 đảm nhiệm

Chi 1 (Đại Chi 1 - Trung Chi 1): Tổ Chi Phạm Hữu Vĩ

Chi 2 (Đại Chi 1 - Trung Chi 2): Tổ Chi Phạm Hữu Hiến

Chi 3 (Đại Chi 1 - Trung Chi 3): Tổ Chi Phạm Hữu Thưởng

Chi 4 (Đại Chi 1 - Trung Chi 4): Tổ Chi Phạm Hữu Thẩm

Chi 5 (Đại Chi 1 - Trung Chi 5): Tổ Chi Phạm Hữu Lăng

Chi 6 (Đại Chi 1 - Trung Chi 6): Tổ Chi Phạm Hữu Hằng

Chi 7 (Đại Chi 2 - Trung Chi 7): Tổ Chi Phạm Đăng Trường

Chi 8 (Đại Chi 2 - Trung Chi 8): Tổ Chi Phạm Đăng Minh

Truyền thừa và phụng tự trong các chi dòng họ Phạm Hữu:

Chi 1:

Đời 10 → đời 15: Hậu duệ Phạm Hữu Mùi.

Đời 15 → đời 17: Hậu duệ Phạm Đức Nhuận phụng tự.

Chi 2:

Đời 10 → đời 15: Hậu duệ Phạm Y.

Đời 15 → đời 17: Hậu duệ Phạm Văn Truyền phụng tự.

Chi 3:

Đời 10 → đời 15: Hậu duệ Phạm Hữu Thuyết.

Đời 15 → đời 17: Hậu duệ Phạm Văn Dần phụng tự.

Chi 4:

Đời 10 → đời 15: Hậu duệ Phạm Văn Ngọc.

Đời 15 → đời 17: Hậu duệ Phạm Văn Cường phụng tự.

Trong đó:

Hậu duệ Phạm Văn Ngọc (đời 15, trưởng chi) và hậu duệ Phạm Văn Thái đi làm ăn xa không rõ tung tích.

Việc phụng tự giao cho hậu duệ Phạm Văn Hồng (đời 15), em trai thứ ba. Hậu duệ Phạm Văn Hồng lấy vợ tại phố Sấu (Hòa Bình) và có hai con trai: hậu duệ Phạm Văn Hùng và hậu duệ Phạm Văn Dũng (đời 16). Việc phụng tự truyền cho cháu hậu duệ Phạm Văn Cường (đời 17), hiện định cư tại phố Sấu.

Chi 4 giao hậu duệ Phạm Văn Thực (đời 15) và con cháu là hậu duệ Phạm Văn Du (đời 17) làm đại diện cho chi, hậu duệ Phạm Văn Du chết giao lại cho con hậu duệ Phạm Văn Cường (đời 18) làm đại diện cho chi.

Chi 5:

Đời 10 → đời 15: Hậu duệ Phạm Văn Phác.

Đời 15 → đời 17: Hậu duệ Phạm Văn Trung phụng tự.

Trong đó:

Hậu duệ Phạm Văn Phác (đời 15) thất tự, việc phụng tự giao lại cho hậu duệ Phạm Văn Nhuẫn (đời 15).

Hậu duệ Phạm Văn Nhuẫn có hai con trai: hậu duệ Phạm Văn Sin và hậu duệ Phạm Văn Giáo (đời 16).

Hậu duệ Phạm Văn Sin không có con trai, nhận dưỡng tử là hậu duệ Phạm Văn Bình (đời 17).

Việc phụng tự truyền cho hậu duệ Phạm Văn Trung (đời 17), con trai hậu duệ Phạm Văn Giáo. Hiện hậu duệ Trung định cư tại Thái Nguyên, em trai là hậu duệ Phạm Văn Hợi (đời 17) làm đại diện cho chi.

Chi 6:

Đời 10 → đời 15: Hậu duệ Phạm Hữu Đức.

Đời 15 → đời 17: Hậu duệ Phạm Văn Sinh phụng tự.

Trong đó:

Hậu duệ Phạm Hữu Đức (đời 15) thất tự, việc phụng tự giao lại cho hậu duệ Phạm Hữu Xuân (đời 15).

Việc phụng tự truyền đến cháu ông là Phạm Văn Sinh (đời 17), hiện định cư tại Tuyên Quang.

Chi 6 hiện không có người ở quê làm đại diện cho chi.

Chi 7:

Đời 10 → đời 15: Hậu duệ Phạm Văn Đễ.

Đời 15 → đời 17: Hậu duệ Phạm Văn Minh phụng tự.

Trong đó:

Hậu duệ Phạm Văn Đễ có con là hậu duệ Phạm Văn Thể (đời 16) đi làm ăn xa không rõ tung tích.

Việc phụng tự giao lại cho hậu duệ Phạm Văn Thiết (đời 15), truyền đến hậu duệ Phạm Văn Minh (đời 17).

Chi 8:

Đời 10 → đời 15: Hậu duệ Phạm Hữu Kim.

Đời 15 → đời 17: Hậu duệ Phạm Văn Hữu phụng tự.

Trong đó:

Hậu duệ Phạm Hữu Kim định cư tại Thanh Hóa. Cháu hậu duệ Phạm Văn Hữu (đời 17) định cư tại Hà Nội.

Việc họ giao hậu duệ Phạm Hữu Mạc (đời 15) cùng con cháu hậu duệ Phạm Văn Hậu (đời 17) làm đại diện cho chi.

Dòng họ Phạm Hữu mãi mãi là biểu tượng của sự gắn kết, đoàn kết và niềm tự hào. Con cháu luôn hướng về cội nguồn, tiếp nối di sản tổ tiên, giữ gìn và phát triển truyền thống tốt đẹp của gia tộc.

Gắn bó chặt chẽ với văn hóa truyền thống, tín ngưỡng và tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo, tạo nền tảng đạo đức và tinh thần hướng thiện cho con cháu. Dòng họ coi trọng xây dựng văn hóa gia đình, lấy đạo hiếu và phúc đức làm cốt lõi, truyền dạy trách nhiệm đối với tổ tiên và gia đình. Các nghi lễ truyền thống như lễ hội, giỗ tổ, ma chay được duy trì để tôn vinh tổ tiên và đoàn kết dòng họ. Dòng họ cũng chú trọng khuyến học, khuyến tài và phát triển các tài năng văn hóa, thể thao, nghệ thuật, góp phần bảo tồn các giá trị dân gian. Họ giữ vững phong tục Bắc Bộ, kết hợp tín ngưỡng Phật giáo với văn hóa dân gian, và duy trì các hoạt động cộng đồng. Phương hướng phát triển lâu dài bao gồm tổ chức hội đồng dòng họ, duy trì quỹ hỗ trợ giáo dục và tổ chức nghi lễ, đồng thời xây dựng tư liệu lịch sử dòng họ.

Lao động là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế gia đình và thể hiện bản sắc văn hóa của dòng họ Phạm Hữu, với tinh thần cần cù, chịu khó. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh và xây dựng cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển gia đình và xã hội. Dòng họ chú trọng đến các công việc nông nghiệp, chăn nuôi, và các ngành nghề truyền thống như thủ công mỹ nghệ và thương nghiệp, với sự cần mẫn, chịu khổ để duy trì và phát triển tài sản chung. Nghề dạy học cũng được coi trọng, không chỉ là nghề kiếm sống mà còn là sứ mệnh duy trì tri thức và phẩm hạnh. Dòng họ Phạm Hữu luôn tạo dựng cộng đồng vững mạnh, phát triển bền vững, và giữ gìn các giá trị truyền thống qua nhiều thế hệ lao động.

Về mặt xã hội, dòng họ cũng đóng góp tích cực vào các hoạt động của làng, xã và các cơ quan nhà nước. Nhiều thành viên đảm nhiệm những vị trí quan trọng, được nhân dân tín nhiệm, góp phần vào sự phát triển chung của quê hương và đất nước.

Các bậc tiền nhân và con cháu tham gia các lĩnh vực xã hội

Họ Phạm Hữu ta ngày càng phát triển về mọi mặt tích cực trong xã hội. Điểm lại họ ta cũng có nhiều bậc tiền nhân có nhiệt tình và năng lực có học vấn nhất định đã tham gia nhiều lĩnh vực công việc của xã hội ở mỗi một thời đại khác nhau như:

* Thời kỳ quân chủ (Giai đoạn 1407-1945)

Hậu duệ đời thứ 6: Phạm Ngọc Đường, Tự Phúc Bình làm "Chức vị cửu khế" dưới thời niên hiệu Dương Đức của Lê Gia Tông (1672);

Hậu duệ đời thứ 7: Phạm Đăng Sỹ, Tự Đạo Ân làm Xã Trưởng “Ấm bản” trong thời kỳ triều đại Lê Hy Tông (1680-1705) – Niên hiệu Duy Hợp (1680–1685) và Chính Hòa (1686–1705);

Hậu duệ đời thứ 8: Phạm Hữu Quang, Tiểu Danh Lan tự Đạo Âu đỗ đạt học vị Sinh đồ (Tú tài);

Hậu duệ đời thứ 9: Phạm Hữu Thủ, Tự Định Chí, Thuỵ Ân Nhã, Tiểu Danh Vũ, đỗ đạt với học vị Sinh đồ (Tú tài); tham gia triều Vĩnh Khánh Huyện Hàm Thìn và thụ chức dưới triều đại Lê Cảnh Hưng (1740);

Hậu duệ đời thứ 10, Chi 1: Phạm Hữu Vĩ, Tự Trung Quán, chức “Nhiêu nam”, biệt hiệu Tiểu danh đôi;

Hậu duệ đời thứ 10, Chi 2: Phạm Hữu Hiến, Tự Doãn Thăng, Thuỵ Bầy Lạc, làm Xã trưởng trong thời kỳ triều đại Lê Hiến Tông (1740-1786) - Niên hiệu Duy Diêu (1740-1745) và Cảnh Hưng (1746-1786);

Hậu duệ đời thứ 11, Chi 1: Phạm Hữu Dụ, Tự Xuân Sinh, cụ tham gia tam trường thi “Đỗ Hương”;

Hậu duệ đời thứ 11, Chi 2: Phạm Hữu Thấu, Tự Thuỷ Phát, làm Thầy Đồ;

Hậu duệ đời thứ 12, Chi 1: Phạm Hữu Hào, Tự Bần Lạc, cụ tham gia tam trường thi “Đỗ Hương”;

Hậu duệ đời thứ 12, Chi 2: Phạm Quốc Trinh, Tự Đại Cát, tham gia đội dân binh Hải Dương, làm xuất đội tỉnh Hải Dương;

Hậu duệ đời thứ 12, Chi 2: Phạm Nhữ Cẩn, Tự Thuấn Mạnh, làm Xã trưởng;

Hậu duệ đời thứ 13, Chi 2: Phạm Hữu Đông, Tự Thuỷ Minh, làm Xã trưởng;

Hậu duệ đời thứ 13, Chi 2: Phạm Nhữ Di, Tự Mạnh Thái, cụ Tổng;

Hậu duệ đời thứ 13, Chi 7: Phạm Đăng Đỉnh, Tự Đạt Tôn, làm Tả cô cửi đội Binh Đỉnh;

Hậu duệ đời thứ 13, Chi 7: Phạm Văn Thiêm, Tự Phúc Kính, làm Tả cô cửi đội Binh Đỉnh; làm Phó lý trưởng (Tổng Lai Thành);

Hậu duệ đời thứ 15, Chi 1: Phạm Hữu Mùi, làm Phó lý trưởng;

Hậu duệ đời thứ 15, Chi 2: Phạm Nhữ Kế, đỗ khóa sinh, làm việc thợ ký địa ba làng;

Hậu duệ đời thứ 15, Chi 2: Phạm Nhữ Phổ, Thầy đồ dậy chữ Hán.

* Thời kỳ hiện đại (1945 – Nay)

- Các anh hùng liệt sỹ hy sinh bảo vệ tổ quốc: những người đã dành trọn cuộc đời và cả sinh mạng của mình để bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Họ là những tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, sự dũng cảm, hy sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, trong dòng tộc ta có những hậu duệ anh hùng liệt sỹ như:

Hậu duệ đời thứ 15, Chi 1: Phạm Tất Cư, liệt sỹ hy sinh chống Pháp;

Hậu duệ đời thứ 15, Chi 3: Phạm Hữu Tiền, liệt sỹ hy sinh chống Pháp;

Hậu duệ đời thứ 15, Chi 5: Phạm Văn Tương, liệt sỹ hy sinh chống Pháp;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 1: Phạm Văn Cửu, liệt sỹ hy sinh chống Mỹ;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 2: Phạm Ngọc Liêm, liệt sỹ hy sinh giải phóng Campuchia;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 3: Phạm Thanh Tùng, liệt sỹ;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 3: Phạm Văn Thọ, liệt sỹ;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 4: Phạm Văn Thị, liệt sỹ;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 4: Phạm Tính Húy, liệt sỹ;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 7: Phạm Bá Lộc, liệt sỹ hy sinh chống Mỹ;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 7: Phạm Văn Ngẫu, liệt sỹ hy sinh chống Pháp;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 8: Phạm Văn Đức, liệt sỹ hy sinh chống Mỹ;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 8: Phạm Văn Sin, liệt sỹ hy sinh chống Mỹ;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 8: Phạm Văn Thái, liệt sỹ hy sinh chống Pháp;

Hậu duệ đời thứ 17, Chi 4: Phạm Văn Thẩm, liệt sỹ hy sinh giải phóng Campuchia;

Hậu duệ đời thứ 17, Chi 4: Phạm Văn Khương, liệt sỹ hy sinh chống Mỹ;

Hậu duệ đời thứ 17, Chi 4: Phạm Văn Toản, liệt sỹ hy sinh chống Mỹ;

Hậu duệ đời thứ 17, Chi 8: Phạm Văn Nhâm, liệt sỹ hy sinh chống Mỹ.

- Bà mẹ Việt Nam anh hùng: Danh hiệu cao quý mà Đảng và Nhà nước Việt Nam trao tặng cho những người mẹ Việt Nam đã cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đặc biệt là những người mẹ có chồng, con hy sinh trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, trong dòng họ Phạm Hữu ta có những Bà mẹ Việt Nam anh hùng như:

Bà mẹ Việt Nam anh hùng: Phạm Thị Thực vợ hậu duệ đời thứ 15, Chi 8: Phạm Văn Hồng có con là liệt sỹ: Phạm Văn Sin.

Bà mẹ Việt Nam anh hùng: Nguyễn Thị Tư vợ hậu duệ đời thứ 16, Chi 4: Phạm Văn Tiễn, có con là liệt sỹ: Phạm Văn Khương.

- Tham gia cán bộ lãnh đạo chính quyền địa phương cấp xã:

Hậu duệ đời thứ 15, Chi 7: Phạm Văn Tý, Thường vụ Đảng uỷ; Phó chủ tịch UBND xã;

Hậu duệ đời thứ 15, Chi 7: Phạm Văn Lĩnh (Quân), Thường vụ Đảng uỷ; Phó chủ tịch UBND xã Lai Thành;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 2: Phạm Văn Nguyên, Phó bí thư đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã Yên Mạc; Bí thư ban chấp hành UBND xã Yên Mạc;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 3: Phạm Văn Minh, Phó bí thư đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã ở Tỉnh Gia Lai;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 5: Phạm Văn Sin, Phó Trưởng công an xã;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 7: Phạm Văn Uýnh, Phó bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch UBND xã Lai Thành;

Hậu duệ đời thứ 16, Chi 8: Phạm Văn Hinh, Chủ tịch mặt trận tổ quốc Việt Nam xã Đông Sơn, thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình;

Hậu duệ đời thứ 17, Chi 1: Phạm Minh Cương, Phó trưởng phòng Tư pháp huyện Yên Mô; Chủ tịch xã Khánh Dương, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình;

Hậu duệ đời thứ 17, Chi 4: Phạm Mạnh Túc, Trưởng Công an xã;

Hậu duệ đời thứ 17, Chi 7: Phạm Hữu Thọ, Phó Chủ tịch xã Yên Mạc; Phó bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã Yên Mạc.

- Tham gia cán bộ lãnh đạo chính quyền địa phương cấp huyện:

Đời thứ 16, Chi 1: Ông Phạm Hữu Tuấn (Tuất), Thường vụ Thị ủy Tam Điệp, Trưởng ban Tuyên giáo kiêm Giám đốc Trường Đảng thị xã; Chủ tịch MTTQ thị xã Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình;

Đời thứ 16, Chi 1: Ông Phạm Văn Tỵ, Phó Chủ tịch MTTQ huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình;

Đời thứ 17, Chi 1: Phạm Mạnh Hùng, Phó Trưởng phòng Kinh tế thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình;

Đời thứ 17, Chi 1: Phạm Quang Hiển, Phó Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT thành phố Tam Điệp.

- Tham gia cán bộ lãnh đạo chính quyền địa phương cấp tỉnh:

Đời thứ 16, Chi 1: Phạm Đăng Lâm, Trưởng Phòng Tổng hợp và Tổ chức hành chính, Văn phòng tỉnh ủy, tỉnh Ninh Bình.

Đời thứ 16, Chi 1: Phạm Văn Sơn, Trưởng phòng tiền lương Sở LĐTBXH tỉnh Lâm Đồng; Phó Giám đốc sở Nội Vụ, tỉnh Lâm Đồng;

Đời thứ 17, Chi 8: Phạm Văn Liệu, Hiệu trưởng trường Cao đẳng thể dục thể thao Thanh Hóa; Phó Hiệu trưởng trường đại học văn hóa thể thao và du lịch; Đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa;

Đời thứ 17, Chi 8: Phạm Văn Ngọ, Trưởng phòng cánh sát kinh tế Công an thành phố Hà Nội; Phó Giám đốc Công an quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Đại tá Công an nhân dân.

- Tham gia cán bộ lãnh đạo các đơn vị của các Bộ nghành, cơ quan Trung ương:

- Đời thứ 16, Chi 2: Phạm Ngọc Liêm, Trung đoàn phó, Tham mưu trưởng trung đoàn trung đoàn 54 (Pháo binh), Sư đoàn 320, Quân Đoàn 3, Bộ Quốc phòng, Thiếu Tá quân đội nhân dân Việt Nam;

- Đời thứ 17, Chi 2: Phạm Ngọc Anh, Trưởng Ban Tài chính, Kiểm toán nhà nước;

- Đời thứ 18, Chi 4: Phạm Văn Cường, Nguyên Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn cảnh sát đặc nhiệm số 3 và số 1; Phó Trưởng Đoàn cảnh sát đặc nhiệm số 1, Bộ tư lệnh cảnh sát cơ động, Bộ Công an, Thượng tá Công an nhân dân.

- Các ông học hành đỗ đạt trong dòng tộc có học hàm, học vị từ tiến sỹ, phó giáo sư, giáo sư:

Đời thứ 17, Chi 02, tiến sỹ Phạm Ngọc Anh;

Đời thứ 17, Chi 08, tiến sỹ Phạm Văn Liệu;

Đời thứ 18, Chi 08, tiến sỹ Phạm Văn Hiệp.

Với tính chất đặc điểm ưu việt, nổi bật dòng họ Phạm Hữu, đặc trưng cơ bản là lao động cần cù, chăm chỉ, nối dõi tông đường và duy trì truyền thống gia đình qua nhiều thế hệ. Các thành viên trong dòng họ có tinh thần yêu nước mạnh mẽ, luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước và giữ gìn nền văn hóa truyền thống. Dòng họ cũng chú trọng đến tình đoàn kết, yêu thương, sống hòa thuận với nhau trong cộng đồng và luôn duy trì mối quan hệ gắn bó giữa các thế hệ. Những giá trị này được thể hiện qua việc sinh con đẻ cái để duy trì dòng tộc, gìn giữ văn hóa truyền thống và xây dựng quê hương. Sự sai quấy của cá nhân trong dòng họ chỉ là hiện tượng cá biệt và không làm ảnh hưởng đến bản chất ưu việt của dòng họ, vì các giá trị cốt lõi của dòng họ vẫn luôn được phát huy mạnh mẽ.

Phương hướng xây dựng dòng họ văn hóa Phạm Hữu là tiếp tục duy trì và phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam, đồng thời tiếp thu những giá trị mới phù hợp với thời đại. Dòng họ sẽ tập trung vào việc phát huy chức năng của mỗi gia đình trong xã hội hiện đại, đảm bảo sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống. Mục tiêu là khắc phục những yếu kém còn tồn tại, đồng thời củng cố tinh thần đoàn kết và sự hòa thuận giữa các thế hệ. Dòng họ Phạm Hữu sẽ không ngừng nỗ lực phát triển và thích nghi với sự thay đổi của thời đại, tạo nền tảng vững chắc cho sự thịnh vượng và phát triển lâu dài của dòng họ trong tương lai.

Tóm lại phả ký của dòng họ Phạm Hữu là tài liệu quan trọng ghi lại sự phát triển và truyền thống của dòng họ qua các thế hệ, đồng thời khẳng định giá trị văn hóa, đạo đức và tinh thần đoàn kết. Phả ký không chỉ là công cụ ghi chép lịch sử gia đình mà còn là nền tảng để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy những giá trị tốt đẹp như lao động cần cù, yêu nước, nối dõi tông đường, và bảo vệ truyền thống gia đình. Thông qua việc nghiên cứu và hoàn thiện phả ký, dòng họ Phạm Hữu sẽ duy trì được sự đoàn kết, vững mạnh, đồng thời đảm bảo các giá trị văn hóa, đạo đức được phát huy và truyền lại cho các thế hệ tương lai. Phả ký cũng là phương tiện quan trọng để củng cố mối quan hệ gia đình, giúp thế hệ sau hiểu rõ cội nguồn và trách nhiệm đối với dòng họ.

Khái quát biên soạn gia phả dòng họ Phạm Hữu:

  1. Biên soạn lần 1

- Thời gian: Cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 18.

- Nhân vật chính: Đời thứ 7 - cụ Phạm Đăng Sỹ (tự Đạo Ân, thường gọi là cụ “Ấm Bản”) và con trai đời thứ 8 - Phạm Hữu Quang (tự Đạo Âu, đỗ học vị Sinh đồ - Tú tài).

- Thành tựu: Hai cụ là những người đầu tiên ghi chép gia phả của dòng họ Phạm Hữu.

  1. Biên soạn lần 2

- Thời gian: Tháng 10 năm 1849 (năm Kỷ Dậu, triều Tự Đức nhị niên).

- Nhân vật chính: Cụ Phạm Nhữ Di (tự Mạnh Thái, thường gọi là “Cụ Tổng”) cùng các cụ đời thứ 12 và 13.

- Thành tựu: Sao chép và bổ sung gia phả bằng chữ Hán Nôm.

  1. Biên soạn lần 3

- Thời gian: Từ ngày 02/09/1945 (năm Ất Dậu) đến năm 1958 (năm Mậu Tuất).

- Nhân vật chính: Đời thứ 15 - Trưởng tôn Phạm Hữu Mùi, với sự hỗ trợ của cụ đồ làng Yên Đồng.

- Thành tựu: Dịch gia phả năm 1849 từ chữ Hán Nôm sang Quốc ngữ. Tuy nhiên, do điều kiện kháng chiến và bảo quản không tốt, nhiều trang gia phả bị hư hỏng, mất mát. Gia phả được bổ sung dựa trên trí nhớ của các cụ đời 14 và 15.

  1. Biên soạn lần 4

- Thời gian: Ngày 02/07/1976 (năm Bính Thìn).

- Nhân vật chính: Đời thứ 16 - Trưởng tôn Phạm Răm và Hội đồng gia tộc.

- Thành tựu: Tổ chức họp gia tộc để quyết định sao lưu, chỉnh lý gia phả.

  1. Biên soạn lần 5

- Thời gian: Ngày 28/02/1997 (năm Đinh Sửu).

- Nhân vật chính: Hậu duệ đời thứ 16 - Trưởng Chi 2, Phạm Văn Nguyên.

- Thành tựu: Sưu tầm, tập hợp gia phả các chi, trao đổi với các thành viên trong họ, xác định thứ tự các đời, bổ sung hoàn thiện gia phả, và được Hội đồng gia tộc chính thức ghi nhận.

  1. Biên soạn lần 6

- Thời gian: Thanh minh năm 2008 (năm Mậu Tý).

- Nhân vật chính: Hậu duệ đời thứ 16 - Trưởng Chi 2, Phạm Văn Nguyên và cháu đời thứ 17 - Thạc sĩ Phạm Ngọc Anh.

- Thành tựu: Tiếp tục sưu tầm, tập hợp gia phả các chi, bổ sung, hoàn thiện và được Hội đồng gia tộc chính thức ghi nhận.

7 Biên soạn lần 7

- Thời gian: Năm 2022 (năm Nhâm Dần) đến năm 2025 (năm Ất Tỵ).

- Nhân vật chính: Hậu duệ đời thứ 17 - Chi 2, Tiến sĩ Phạm Ngọc Anh.

- Thành tựu: Tiếp tục sưu tầm, cập nhật gia phả các chi, trao đổi với các thành viên trong dòng họ, xây dựng mã định danh trong gia phả, bố cục lại toàn bộ gia phả, thay đổi kết cấu chi tiết gia đình, biên soạn bổ sung, hoàn thiện thêm gia phả và được Hội đồng gia tộc chính thức ghi nhận.

 Ca ngợi dòng họ Phạm Hữu

Đời thứ 17, Chi 2, Hậu duệ Phạm Ngọc Anh

Mô Độ quê hương – đất linh, người kiệt,
Dòng họ Phạm Hữu lập nghiệp, dựng danh.
Núi Bảng uy nghi, núi Mũ hiển thành,
Sông Trinh, sông Càn, kênh nhà Lê bồi đắp.

Xưa Gia Nô, rồi thành Mô Độ,
Trải nghìn năm, đất Yên Mô rạng rỡ.
Hiển Thủy Tổ về, chọn đất dựng cơ,
Hình chữ "Vương," phong thủy nên thơ.

Đàn Đỏ linh thiêng, lưu truyền ý chí,
Lòng hiếu kính, sáng soi bao thế hệ.
Cụ Nhữ Di đổi hướng “Long chầu, Hổ phục,”
Truyền thống vẹn toàn, mãi mãi bền lâu.

Hai mươi đời, từ Hồng Đức sáng ngời,
Cháu con tiếp nối, vươn xa muôn nơi.
Nơi quê hương, nghĩa tình thắm đượm,
Khắp năm châu, chí lớn vẫy vùng.

Tộc phả còn đây – kho báu dòng tộc,
Ghi dấu ân tình, cội rễ nguồn sâu.
Mỗi trang sử, bài học nhắc nhở,
Sống nghĩa tình, đoàn kết bền lâu.

Mảnh đất Mô Độ, muôn đời trân quý,
Đức cần cù, nhân hậu mãi còn đây.
Truyền thống sáng, lòng tự hào lan tỏa,
Dòng họ Phạm Hữu – ngời sáng ngàn sau.